Vào năm 1947, Hiền Tài Lê minh Tòng là một họa sĩ, lãnh ý kiến của Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc để vẽ bức họa "Tam Thánh ký Hòa ước" tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Tam Thánh là 3 vị Thánh, ở đây chỉ 3 vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động nơi cõi Thiêng liêng. Ba vị Thánh đó là :
- Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ, hay Thanh Sơn Chơn Nhơn, đứng đầu Bạch Vân Động, mà trong kiếp giáng trần tại Việt Nam, Ngài là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm.
- Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, mà trong kiếp giáng trần tại nước Pháp, Ngài là Đại văn hào Victor hugo.
- Đức Trung Sơn Chơn Nhơn, mà trong kiếp giáng trần tại nước Trung Hoa, Ngài là nhà Đại Cách mạng Tôn Dật Tiên, tức Tôn Văn.
, theo nghĩa chữ Hán, có nghĩa là ghi chép.
Hòa Ước là bản văn cam kết thi hành những điều thỏa thuận giữa đôi bên. Đây là bản Hòa Ước giữ Trời và Người, tức là giữa Thượng ĐếNhơn loại, nên được gọi là THIÊN NHƠN HÒA ƯỚC.

Tam Thánh Ký Hòa Ước là 3 vị Thánh Bạch Vân Động ghi chép bản Thiên Nhơn Hòa Ước lên một tấm bia đá để công bố lên cho toàn thể Vạn Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ biết rõ.
Khi du khách bước vào cửa chánh Tòa Thánh, nhìn ngay vào, liền thấy một bức họa thật lớn sừng sựng trên vách, vẽ hình Tam Thánh Bạch Vân Động cao lớn và sống động như người thật, đang cầm bút viết bản Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước trên một tấm bia đá tỏa hào quang bằng 2 thứ chữ : Chữ Trung Hoa tức là chữ Nho của Việt Nam, và chữ Pháp :

Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cầm bút lông viết 8 chữ Nho có nghĩa :

Thiên thượng Thiên hạ - Bác ái Công bình.

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn cầm bút lông ngỗng viết 6 chữ Pháp :

"DIEU et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE"

Cả hai vị đều chấm bút lông vào nghiên mực đỏ tỏa hào quang do Đức Trung Sơn Chơn Nhơn đứng cầm. Bên góc dưới Bức họa có ghi : " Tòa Thánh 1947, Họa sĩ Lê minh Tòng"

Bên cạnh Bức họa nầy, Hội Thánh có đặt bản chú thích bằng 5 thứ chữ : Chữ Việt, chữ Pháp, chữ Trung Hoa, chữ Anh và chữ Đức.

Cụ NGUYỄN BỈNH KHIÊM, nhà tiên tri danh tiếng lớn ở đời Mạc Lê, thi đậu Trạng nguyên, tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức là Sư Phó của Bạch Vân Động.

Cụ VICTOR HUGO, nhà thi gia trứ danh của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là đệ tử của Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm ở Bạch Vân Động.

Cụ TÔN DẬT TIÊN, đại cách mạng gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn Văn, giáng cơ tự xưng là Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là đệ tử Cụ Nguyễn bỉnh Khiêm ở Bạch Vân Động.

Ba vị Thánh nhơn trên đây là Thiên Sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước."

Trên bức họa Tam Thánh ký Hòa ước, chúng ta thấy :

  • Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ , Tức danh sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Ông là một danh nhân nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ 16, từng đỗ Trạng nguyên, được phong tước Trình Tuyền hầu, nên dân gian gọi ông là Trạng Trình. Ông nổi tiếng đạo đức và có tài tiên tri, hiệu Bạch Vân cư sĩ, từng mở trường dạy học. Đạo hiệu Thanh Sơn Đạo sĩ, tức ông thầy, đứng đầu Bạch Vân động. Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, mặc triều phục của một văn quan Đại thần Việt Nam thuở xưa, Ngài cầm bút lông mèo viết vừa xong 8 chữ Nho, phiên âm là : Thiên thượng Thiên hạ - Bác ái Công bình.
  • Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức văn hào Victor Hugo, Ngài là một Hàn Lâm Học Sĩ lúc bấy giờ. Victor Hugo mặc quan phục Pháp thời cận đại, viết bằng Pháp văn, hàm ý đại diện cho Triết học Tây phương. Ngài cầm bút lông ngỗng viết 6 chữ Pháp : Dieu et Humanité - Amour et Justice. Sáu chữ Pháp nầy nghĩa là : Trời và Nhơn loại - Bác ái và Công bình.
  • Đức Tôn Trung Sơn, tức là Tôn dật Tiên hay Tôn Văn của nước Trung Hoa (1866-1925). Ông là nhà cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc đầu thế kỷ 20. Là người đề ra thuyết Tam Dân. Ông mặc quốc phục Trung Hoa, vì ông là nhà Đại Cách mạng đứng lên lật đổ chế độ Quân chủ của vua quan nhà Thanh, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa với thuyết Tam Dân chủ nghĩa : Dân tộc, Dân quyền, Dân sinh. Đức Tôn Trung Sơn cầm nghiên mực rực rỡ ánh hào quang, để cho 2 vị kia chấm bút vào mà viết ra chữ. Điều đó tượng trưng cho sự hiểu biết giữa Đông phương và Tây phương hòa hợp cùng nhau đặt trên nền tảng Triết lý Nho giáo của Đức Khổng Tử nước Trung Hoa. Nghiên mực rực rỡ ánh hào quang tượng trưng nền văn minh Nho giáo của Trung Hoa rất rực rỡ vào thuở xưa.

Bản Thiên Nhơn Hòa Ước được viết lên tấm bảng đá cũng rực rỡ ánh hào quang, được 2 vị Thánh đứng đầu Bạch Vân Động viết ra để công bố cho toàn cả chúng sanh biết bằng 2 thứ chữ :
- Chữ Trung Hoa, cũng là chữ Nho của Việt Nam, là chữ viết có ảnh hưởng lớn ở vùng Á Đông.
- Chữ Pháp của nước Pháp ở Âu Châu, là chữ viết có nhiều ảnh hưởng ở các nước Tây Âu.
Nội dung của Bản Thiên Nhơn Hòa Ước nầy rất đơn giản, chưa có bản Hòa ước nào trên thế gian lại đơn giản hơn, vì nội dung chỉ gồm có 4 chữ : BÁC ÁI - CÔNG BÌNH.

Tam Thánh công bố Bản Thiên Nhơn Hòa Ước nầy để chúng sanh biết rõ sự Cam Kết giữa Thượng Đế và Nhơn loại.

Người nào trong nhơn loại mà thực thi 4 chữ nầy được trọn vẹn thì Thượng Đế sẽ rước về cõi Thiêng liêng để ban thưởng cho những phẩm vị Thánh, Tiên, Phật tương xứng.

Còn nếu Nhơn loại không thực hiện được 4 chữ nầy, mà lại làm nhiều điều trái ngược thì sẽ bị đọa, không thể kêu nài được nữa.

Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng chỉ có mục đích dạy dỗ nhơn sanh thực hiện 4 chữ BÁC ÁICÔNG BÌNH trong Hòa ước nói trên.

Đức Hộ Pháp giải thích :

1. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn,

2. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ,

3. Đức Tôn Trung Sơn,

là đại diện của Hội Thánh Ngoại Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires étrangers), cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi thiêng liêng của các Ngài.
Cả 3 vị Thánh đều mặc cổ phục. Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa. Cái khuôn xi măng đúc trên vách HTĐ, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia, Bần đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.
Ngày nay thời cuộc biến thiên, vị Hiền Tài LÊ MINH TÒNG ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng : Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến.
Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì Chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.
Kể từ ngày 10-7-Mậu Tý (dl 19-8-1948), tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp Thiên Đài, là biểu hiệu cho Chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng ngoại giáo.


Tòa Thánh, ngày 10-7-Mậu Tý (dl 19-8-1948).
Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường thuật.